5 trường hợp này dù là con ruột cũng không được hưởng thừa kế từ cha mẹ: Người dân cần nắm rõ (module này đang phát triển)
Thời trang
( PHUNUTODAY ) - Theo quy định của pháp luật, có 5 trường hợp không được hưởng thừa kế của cha mẹ mặc dù đó là con ruột.
Thông thường, khi cha mẹ mất đi, tài sản của họ mặc định sẽ để lại cho con cái trong trường hợp không có di chúc. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, có 5 trường hợp không được hưởng thừa kế của cha mẹ mặc dù đó là con ruột.
Những trường hợp sau không được hưởng thừa kế nhà đất từ cha mẹ
Theo Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, những người sau đây không được quyền hưởng di sản, cũng như quyền thừa kế nhà đất, bao gồm:
- Trường hợp 1: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Trường hợp 2: Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Trường hợp 3: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
- Trường hợp 4: Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy nhiên những người này vẫn có thể được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó nhưng trong di chúc vẫn đồng ý cho họ hưởng tài sản.
- Trường hợp 5: Con đã thành niên có khả năng lao động và toàn bộ di sản được thừa kế theo di chúc hợp pháp nhưng không cho người con đó hưởng thừa kế.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”.
Như vậy, các quy định trên có thể cho ta biết nếu con đã thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động không có quyền được hưởng di sản thừa kế khi:
- Người lập di chúc không cho người đó hưởng thừa kế theo di chúc.
- Toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở được thừa kế theo di chúc hợp pháp.
Sổ đỏ đứng tên người đã mất có sang tên được không?
Nếu trong trường hợp người mất có để lại di chúc về việc kế thừa tài sản và di chúc đó được coi là hợp pháp thì người thừa kế được ghi nhận trong di chúc sẽ có quyền tuyệt đối để thực hiện thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức nhận thừa kế theo di chúc. Đối với trường hợp trong di chúc có nhiều đồng thừa kế thì phải xin chữ ký xác nhận của những người đồng thừa kế khác để họ đồng ý chuyển nhượng hoặc ủy quyền cho một người đứng ra làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu trong trường hợp người mất không để lại di chúc hoặc di chúc người mất để lại không hợp pháp thì phần di sản sẽ được chia cho những người thừa kế theo hàng thừa kế căn cứ theo quy định tại điều 651 bộ luật dân sự 2015.
Đối với trường hợp người thừa kế được kế thừa quyền sử dụng đất ngoài việc phải tuân đủ điều kiện về thừa kế theo quy định của bộ luật dân sự 2015 thì còn phải tuân thủ quy định về điều kiện và trình tự thủ tục theo từng loại đất theo quy định tại Luật đất đai 2013
Căn cứ theo điều 186 Luật đất đai 2013 quy định về điều kiện đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người có quốc tịch Việt Nam nhưng định cư ở nước ngoài như sau: Nếu trong trường hợp người quốc tịch Việt Nam nhưng đang định cư ở nước ngoài thì phải đáp ứng điều kiện thuộc đối tượng sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì mới có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nếu người kế thừa muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác thì người nhận kế thừa được đứng tên sẽ là người chuyển nhượng trong hợp đồng trong quyền sử dụng đất. Tuy nhiên trong trường hợp người kế thừa chưa chuyển nhượng hoặc chưa tặng quyền sử dụng đất cho người khác thì cần phải có văn bản ủy quyền và nộp tại cơ quan đăng ký đất đai để được cập nhật vào sổ địa chính.